Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam

info@yhocphothong.com

Châm cứu nâng cao

Mạch Ý nghĩa Lộ trình chung Biểu hiện bệnh lý Tác dụng chữa bệnh
ĐỐC

(28 huyệt riêng)

Giám sát, chỉ huy, cai quản, còn có ý nghĩa là ngay thẳng hay ở giữa. “Dương mạch chi hải” (biển của các kinh Dương) Đi ở đường dọc giữa lưng. Cột sống vận động khó, bệnh nặng thì như uốn ván, đầu váng, lưng yếu. Cứng lưng, chậm biết đi, bệnh lý não, bệnh của tạng phủ.
NHÂM

(24 huyệt riêng)

Gách vác, giữ gìn. “Âm mạch chi hải” (Biển của các kinh Âm) Đi ở đường dọc giữa ngực, bụng. Nam: Thoái vị.

Nữ: Khí hư, vô sinh, rối loạn kinh nguyệt.

Hệ sinh dục, tiết niệu, dạ dày, ngực họng, trợ dương, bổ âm.
XUNG

(Không huyệt riêng)

Thông, là con đường đi suôn sẻ bốn bể Có vai trò nối những huyệt của kinh Thận ở bụng và ngực, nối liền giữa Tiên thiên của Thân và Hậu thiên thủy cốc dẫn lên xuống khắp chủ thân trong nhiệm vụ sinh thành những bào thai. Kinh nguyệt không đều, vô sinh, khí hư, đái dầm, thoái vị, khí từ bụng dưới bốc lên ngực, đau vùng trước tim. Đau bụng – ngực cấp, các chứng của kinh Thận, suyễn.
ĐỚI

(Không huyệt riêng)

Cái đai (Người xưa thường dùng sợi dây lớn thắt áo vào lưng) Mạch Đới chạy vòng quanh thắt lưng, bên dưới các sườn và bọc lấy những đường kinh chính như bó lúa (ngoại trừ kinh Can và Bàng quang) Bụng đầy trướng, lưng lạnh, kinh nguyệt không đều, khí hư, chân teo, yếu liệt. Bụng, thắt lưng đau thắt, kinh nguyệt không đều, khí hư, chân yếu.
DƯƠNG KIỂU

(Không huyệt riêng)

Thăng bằng, linh hoạt Mạch Dương kiểu bắt đầu từ mắt cá ngoài, mạch Âm kiểu bắt đầu từ mắt cá trong. Cả hai đều tận cùng ở khóe mắt trong.

Có nhiệm vụ chỉ đạo các vận động của cơ thể và duy trì hoạt động của mí mắt.

Mắt mờ, đau mắt đỏ, mất ngủ, động kinh, lưng đau. Bàn chân lệch ra ngoài, động kinh, mất ngủ.
ÂM KIỂU

(Không huyệt riêng)

Ngủ nhiều, động kinh, bụng dưới đau, thoái vị ở nam, băng lậu. Bàn chân lệch trong, họng đau, động kinh, buồn ngủ.
DƯƠNG DUY

(Không huyệt riêng)

Nối liền, duy trì, liên lạc Mạch Dương duy có lộ trình ở phần dương của cơ thể và nối các kinh dương với nhau. Sức yếu, sốt rét, đầu váng, hoa mắt, suyễn, đau sưng thắt lưng. Chứng số ở Biểu.
ÂM DUY

(Không huyệt riêng)

Mạch Âm duy có lộ trình ở phần âm của cơ thể và nối các kinh âm với nhau. Đau vùng ngực sườn, thắt lưng đau, đau vùng sinh dục nam. Bệnh dạ dày, đau vùng ngực, bụng đau.

 

* ỨNG DỤNG CỦA KỲ KINH BÁT MẠCH:

  1. Mạch Nhâm và Mạch Đốc thường được sử dụng nhiều hơn.
  2. Sáu mạch Âm duy, Dương duy, Âm kiều, Dương kiều, Xung, Đới chỉ thấy được dùng phối hợp với Giao hội huyệt (gọi là Bát Mạch Giao Hội Huyệt) và đặc biệt được sử dụng trong Linh Quy Bát Pháp.

Huyệt Kinh mạch Giao hội (Huyệt mở)

 

 

Tình trạng bệnh nào nên sử dụng Kỳ kinh bát mạch trong điều trị?

  1. Nếu bệnh lý rõ ràng chỉ ảnh hưởng đến một Kinh chính, thì chỉ sử dụng Kinh chính đó.
  2. Tuy nhiên, nếu có ảnh hưởng đến nhiều hơn một kinh, thì việc sử dụng Kỳ kinh Bát mạch là nên xem xét bởi vì Kỳ kinh Bát mạch như các hồ chứa khí huyết từ nhiều Kinh chính khác nhau đổ về.
  3. Ngoài ra, Kỳ kinh Bát mạch được sử dụng trong các trường hợp bệnh lý phức tạp, các trường hợp mãn tính được đặc trưng bởi nhiều các hội chứng bệnh và nhiều triệu chứng khác nhau ở các vùng cơ thể khác nhau.
  4. Hàn – Nhiệt, Hư – Thực thác tạp, bệnh lý tâm thần kinh.

So sánh hai phương pháp điều trị

Mười hai đường kinh mạch chính Bát mạch kỳ kinh
Khách quan Tăng cường sinh lực Giảm triệu chứng
Điều trị kinh lạc 12 kinh mạch 2 – 4 kinh tuyến
Hiệu quả tức thì Hiệu lực có thể mất một lúc Hiệu quả là ngay lập tức
Hiệu quả lâu dài Tồn tại Không tồn tại
Kỹ thuật Cần bổ sung và / hoặc kỹ thuật an thần Châm cứu đơn giản là đủ
Chẩn đoán Tứ chẩn, bắt mạch Bấm huyệt, vị trí bệnh, triệu chứng

* Cách sử dụng huyệt:

  1. Đơn huyệt mở của chính kỳ kinh bệnh hai bên (Ví dụ Liệt khuyết (LU-7 Lieque) khi Nhâm mạch bệnh)
  2. Huyệt mở và huyệt phối hợp hai bên (Ví dụ: Liệt khuyết (LU-7 Lieque) và Chiếu hải (KI-6 Zhaohai). Phương pháp này thường sử dụng cho nhiều loại bệnh lý.
  3. Huyệt mở và huyệt phối hợp một bên và bắt chéo (Ví dụ: Liệt khuyết (LU-7) ở một bên và Chiếu hải (KI-6) ở bên kia). Phương pháp này phù hợp với các vấn đề về đầu mặt và cơ quan nội tạng. Nó đặc biệt thích hợp cho trẻ em, người già, những người với tình trạng cơ thể yếu hoặc những người bị lo lắng.
  4. Huyệt mở và huyệt phối hợp một bên (Ví dụ: Liệt khuyết (LU-7) và Chiếu hải (KI-6) ở cùng một phía. Phương pháp này phù hợp với các vấn đề có biểu hiện ở một bên lưng: lưng và chân tay, bong gân ….

Ví dụ 1: Một người phụ nữ bị chảy máu nướu răng và huyết trắng có màu vàng, mùi hôi. Chẩn đoán thường gặp trong trường hợp này?

2 hội chứng bệnh:

– Nướu chảy máu có thể do Vị nhiệt và

– Huyết trắng do Thấp nhiệt hạ tiêu

Tuy nhiên, có một mối liên hệ giữa chúng: cả hai đều trên khu vực chịu ảnh hưởng của Nhâm mạch (Ren Mai).

– Huyệt điều trị: Liệt khuyết (LU-7 Lieque) và Chiếu hải (KI-6 Zhaohai).

Liệt khuyết – Chiếu hải châm trước rồi đến các huyệt khác nếu muốn: Hợp cốc, Âm lăng tuyền, Túc Tam lý, Quan nguyên,…

Ví dụ 2: Nếu ban đêm không ngủ được, mắt không nhắm lại được, do mạch Âm Kiều hư, bổ huyệt Chiếu hải.

– Nếu ban ngày không ngủ được do mạch Dương Kiều thực, tả huyệt Thân mạch.

– Ngoại cảm gây sốt, do mạch Dương duy bị rối loạn, châm tả huyệt Ngoại quan.

– Cổ gáy đau, cứng do Đốc mạch bị rối loạn, châm tả huyệt Hậu khê ….

* Châm cứu kinh điển trong Nội kinh và Giáp ất kinh:

Có 9 pháp để ứng với cửu biến:

  1. Du thích: Là phép châm các huyệt Huỳnh du của các kinh chính và các huyệt (Bối) du thuộc tạng phủ.

– Bệnh lý Tạng phủ.

– Nhiệt bệnh, áp xe.

– Bệnh lý xương, Thận bệnh.

  1. Viễn đạo thích: Châm các huyệt ở dưới mà bệnh ở trên, đó là châm theo lối ‘Phủ du’

– Chú trọng Lục hợp huyệt của Phủ, Lục tổng hợp.

– Các huyệt đặc hiệu ở chi dưới (Quang minh, Thái xung,…).

  1. Kinh thích: Châm vào vùng kết lạc của các đại kinh

– Huyệt giao hội của các đường kinh: Bát mạch giao hội huyệt.

  1. Lạc thích: Phép châm vào vùng huyết mạch của tiểu lạc.

– Chích lễ.

  1. Phận thích: Là phép châm vào trong khoảng phận mục.
  2. Mao thích: Châm các chứng “tý” nổi cạn lên ở vùng bì phu.

– Bì mao tý.

  1. Cự thích: Là phép châm, nếu bệnh ở tả thì châm ở huyệt bên hữu, bệnh bên hữu thì châm huyệt bên tả.

– Điều trị biệt lạc.

  1. Thôi thích: Là phép châm bằng cách đốt nóng nhờ vậy mà thủ được các chứng tý — Hỏa châm

– Hàn tý.

  1. Đại tả thích (Đại thích): Là phép dùng kim châm vào nơi có nhiều mủ.

– Dẫn lưu áp xe.

*** Pháp châm Cự thích:

  1. Phải / Trái:

– Đau răng ở bên phải: Hợp cốc (LI-4 Hegu) ở bên tay trái.

– Đau vai do suy giảm khả năng vận động: Châm vào vai lành tại các điểm tương ứng với các điểm A thị được tìm thấy trên vai bị bệnh.

– Bong gân cổ chân: Thương khâu (SP-5 Shangqiu) và Khâu khư (GB-40 Qiuxu) ở phía đối diện.

– Bong gân khuỷu tay: Khúc trì (LI-11 Quchi), Liệt khuyết (LU-5 Chize) hoặc Thiên tĩnh (SJ-10 Tianjing) ở phía đối diện.

– Rối loạn khớp gối: Ủy trung (BL-40 Weizhong), Tất nhãn (MN-LE-16 Xiyan), Khúc tuyền (LIV-8 Ququan) và Dương tất quan (GB-33 Xiyangguan) ở bên đối diện.

– Viêm khớp cổ chân: Thân mạch (BL-62 Shenmai) và Chiếu hải (KID-6 Zhaohai) ở bên không bị ảnh hưởng.

– Bong gân cổ tay: Dương khê (LI-5 Yangxi), Uyển cốt (Wangu SI-4) hoặc Đại lăng (P-7 Daling) ở phía đối diện.

  1. Trên / Dưới:

– Bong gân mắt cá chân: Khúc trì (LI-11 Quchi) và Dương trì (SJ-4 Yangchi) ở bên đối diện.

– Đau ở giữa xương vai: Châm Bể quan (ST-31 Biguan) vào chân đối diện.

– Đau ở lưng: Hoàn khiêu (GB-30 Huantiao) ở chân đối diện.

– Bong gân mắt cá chân: Uyển cốt (SI-4 Wangu) ở phía đối diện.

  1. Ngực / Lưng:

– Đau dạ dày: Tỳ du (BL-20 Pishu) và Vị du (BL-21 Weishu).

– Điều trị ho: Phế du (BL-13 Feishu).

– Điều trị tiêu chảy: Tỳ du (BL-20 Feishu).

– Đau lưng giữa hoặc lưng trên: Trung phủ (LU-1 Zhongfu), Khí hộ (ST-13 Qihu), Bất dung (ST-19 Burong) và Thạch quan (KID-18 Shiguan).

  1. Bụng / Thắt lưng:

Đau lưng dưới: Quan nguyên (REN-4 Guanyuan) và Khí hải (REN-6 Qihai) cũng giống như Thủy đạo (ST-28 Shuidao), Khí huyệt (KID-13 Qixue), Âm giao (REN-7 Yinjiao) và Thủy phân (REN-9 Shuifen).

Đau bụng do tắc ruột cấp tính: Đại trường du (BL-25 Dachangshu), Tiểu trường du (BL-27 Xiaochangshu) và Thứ liêu (BL-32 Ciliao).

Cơn đau quặn thận: Chí thất (BL-52 Zhishi).

Nhiễm trùng bàng quang: Thận du (BL-23 Shenshu) và Mệnh môn (DU-4 Mingmen).

Đau bụng kinh: Thận du (BL-23 Shenshu) và Can du (BL-18 Ganshu).

Có thể điều trị tiết dịch âm đạo bất thường: Thứ liêu (BL-32 Ciliao) và Thận du (BL-23 Shenshu).

  1. Kinh Âm / Dương:

– Liệt nửa người bệnh kinh Dương minh có thể được điều trị bằng: Khúc trạch (P-3 Quze), Nội quan (P-6 Neiguan), Thái xung (LIV-3 Taichong), Thái khê (KID-3 Taixi), Âm Lăng tuyền (SP-9 Yinlingquan) và Tam âm giao (SP-6 Sanyinjiao).

– Tiêu chảy do Tỳ khí hư có thể được điều trị bằng Túc tam lý (ST-36 Zusanli).

– Liệt mặt hoặc lệch miệng và mắt có thể được điều trị bằng Thái xung (LIV-3 Taichong).

*** Kỹ thuật châm kim kèm với chuyển động:

Là một kỹ thuật rất hiệu quả để điều trị đau trong bệnh lý cơ – xương – khớp. Hiệu quả lâm sàng thường nhanh chóng và lâu dài.

Thông thường, bên bị ảnh hưởng được sờ nắn cẩn thận để xác định điểm A thị, và châm điểm tương đương ở bên lành trong khi bệnh nhân di chuyển bộ phận bị bệnh.

*** Phàm các phép gồm có 12 để ứng với 12 kinh mạch:

  1. Ngẫu thích: Là phép châm dùng tay án ngay chỗ tâm ở trước cũng như ở sau lưng chỗ đang đau nhức, châm phía trước 1 kim, phía sau 1 kim, nhằm trị chứng “Tâm tý”, châm theo phương pháp này phải châm kim nghiêng (bàng)

            + Tâm khí ứ trệ

  1. Báo thích: Là châm vào những nơi đau nhức không nhất định, chạy lên chạy xuống, châm vào trong không rút kim ra, dùng tay trái án lên chỗ đau rồi mới rút kim, châm như vậy nhiều lần.
  2. Khôi thích: Là châm vào bên cạnh, nâng mũi kim lên phía sau hoặc phía trước nhằm khơi lên đường gân đang bị cấp để trị chứng cân tý.
  3. Tề thích: Là phép châm 1 kim thẳng 2 kim nghiêng (xiên) nhằm trị chứng hàn khí đang còn chưa đi sâu vào bên trong, còn có tên là Tam thích, Tam thích nhằm trị tý khí đang còn chưa sâu vào trong.
  4. Dương thích: Là phép châm ở ngay giữa 1 kim, ở 4 bên 4 kim, châm cạn nhằm trị hàn khí đang còn ở cạn mà rộng.
  5. Trực châm thích: Là phép châm (dùng tay) kéo da lên rồi mới châm nhằm trị hàn khí đang còn ở cạn.
  6. Du thích: Là phép châm thẳng vào rút thẳng ra, phát kim để châm thật lâu và lưu kim thật sâu, nhằm trị tà khí đang thịnh và nhiệt.
  7. Đoản thích: Là phép châm đến tận ‘cốt tý’, mũi kim hơi dao động và đi sâu vào đến chỗ ‘cốt’ mà mũi kim phải tới như thế là chúng ta đang có tác động lên xuống nhằm bức thiết tà khí đang ở sâu vào ‘cốt’ (phải đi ra) vậy.
  8. Phù thích: Là phép châm các mũi kim vây quanh (vùng đau) và nên châm cạn nhằm trị chứng cơ bị cấp mà hàn.
  9. Âm thích: Là phép châm cả hai bên phải bên trái nhằm trị chứng “hàn quyết”, châm trúng chứng hàn quyết nằm ở kinh Thiếu âm ngoài sau mắt cá.
  10. Bàng châm thích: Là phép châm 1 mũi kim châm ngay, 1 mũi kim châm xiên bên cạnh, mỗi bên 1 mũi nằm nhằm trị chứng lưu tý ở lâu trong cơ thể.
  11. Tán thích: Là phép châm thẳng vào và rút thẳng ra, châm nhiều cây mà châm cạn xuất huyết trị ung thũng.

**** Phép châm có “ngũ” để ứng với “ngũ tạng”:

– “Bán thích”, có nghĩa là châm vào cạn, nhưng phát châm nhanh, đừng châm làm thương đến “nhục” mà phải như động tác nhổ một sợi lông, nhằm thủ lấy khí ở nơi bì (da). Đấy là phép châm ứng với Phế.

– “Báo văn thích”, là phép châm trái phải, trước sau, châm cho trúng mạch là chính, nhằm thủ quyết ở kinh lạc. Đây là phép châm ứng với Tâm.

– “Quan thích”, là châm thẳng vào hai bên phải trái (tứ chi), tận vào những nơi có cân nối quan tiết, nhằm thủ khí “cân tý”; Nên cẩn thận không nên châm xuất huyết. Đây là phép châm ứng với Can, còn gọi là “Uyên thích”, “Khởi thích”.

– “Hợp cốc thích”, là phép châm hai bên phải và trái giống như cái “kê túc – cẳng gà”. Châm vào vùng phận nhục, nhằm thủ khí “cơ tý”. Đây là phép châm ứng với Tỳ.

– “Du thích”, là phép châm thẳng vào và rút thẳng ra, châm sâu vào trong đến tận “cốt”, nhằm thủ khí “cốt tý”. Đây là phép châm ứng với Thận.

**** Phép châm có “Ngũ tiết”:

Chấn Ai là phép châm cạn ngoài kinh mạch nhằm đuổi Dương tà thuộc bệnh. Phát Mông là phép châm các du huyệt thuộc Dương thuộc phủ, nhằm trị được các bệnh thuộc lục phủ. Khứ Trảo là phép châm chủ yếu về các quan tiết và chi lạc. Triệt Y là phép châm trên các kỳ huyệt trên các vùng Dương phận. Giải Hoặc là phép châm mà người châm phải biết rõ tường tận việc điều hòa Âm Dương, biết tả cái hữu dư, biết bổ cái bất túc, thay dổi việc hư thực trở lại bình thường.

“Phép châm Chấn Ai”: Là phép châm cạn ngoài kinh mạch nhằm đuổi Dương tà của bệnh. Phép châm Chấn Ai nhằm chữa những chứng mà Dương khí đại nghịch lên trên, tích đầy trong lồng ngực, làm cho ngực bị ứ đầy vì khí phẫn uất, phải co vai lại để thở, tông khí trong lồng ngực lại nghịch lên trên, phát suyễn thở nghe khò khè, chỉ ngồi gục xuống chứ không thể nằm yên, trong lúc phát bệnh, người bệnh lại sợ bụi bặm và khói như đang bị nghẹn cổ không thở được, khi nói đến phép châm Chấn Ai tức là phép chữa phải thật nhanh như là quét dọn cho sạch bụi bặm.

=> Dùng huyệt Thiên Dung. Nếu có ho, khí nghịch lên, uốn mình co ro lại mà vùng ngực lại đau thì dùng huyệt Liêm Tuyền. Khi châm huyệt Thiên Dung không nên quá hơn một khoảng thời gian của 1 người đi 1 dặm. Châm huyệt Liêm Tuyền, nên quan sát sắc diện của người bệnh biến đổi thì ngưng, rút kim ra.

“Phép châm Phát Mông”: Là phép châm trị tai không nghe gì, mắt không thấy gì. Phép này chỉ châm các du huyệt thuộc lục phủ, trị được bệnh ở lục phủ.

=> Phép lớn của phương pháp châm này đã đưa cách châm đến chỗ hay nhất, thuộc về thể loại của thần minh, dùng lời nói, hay diễn tả bằng sách vở cũng không thể diễn tả đầy đủ ý nghĩa của nó, gọi nó là Phát mông chính vì hiệu quả của nó còn nhanh hơn là quét sạch bụi che cho sáng mắt.

=> Dùng huyệt Thính Cung: Khi mũi kim vừa châm vào, ta dặn bệnh nhân dùng ta bịt kín 2 lỗ mũi, đồng thời ngậm kín miệng lại, ngăn được tiếng nói, kết quả sẽ ứng với mũi kim châm, tai sẽ nghe được âm thanh. Ta gọi đây là trường hợp hành động bằng mũi kim vào nơi không hình tích gì, mắt tưởng chừng như không thấy gì, chỉ thấy mũi kim được chọn để truyền cảm, sự truyền cảm giữa mũi kim và khí hóa đáng được gọi là sự tương đắc của thần minh vậy.

– “Phép châm Khứ Trảo”: Là phép châm chủ yếu về các quan tiết và chi lạc.

Thắt lưng và cột sống là xương quan tiết lớn nhất trong thân thể, thân và cẳng chân là then chốt của việc đi đứng của con người.

Âm khí (Dương vật) là cơ năng quan trọng ở giữa thân, là nơi biểu hiện của sự giao cấu, xuất tinh, là con đường vận hành của tân dịch.

Vì thế, nếu việc ăn uống không tiết độ, việc vui giận không đúng mức độ, làm cho tân dịch tràn ngập vào trong, từ đó sẽ đi xuống và lưu lại nơi dịch hoàn, huyết đạo (thủy đạo) không thông, mỗi ngày mỗi to dần không thôi (nhân vì tứ chi, thắt lưng, cột sống bị bất lợi) làm cho việc cúi ngửa không tiện lợi và việc đi đứng không được.

Bệnh này dường như có nước đọng vòng quanh, khí lên cũng không được, tiểu tiện xuống cũng không được, dùng kim phi châm để thủ thủy khí, đây là phép trị một thứ bệnh của loại có hình dáng dương vật, dịch hoàn thường không che dấu được, ví như cắt bỏ dần chỗ dư của móng tay, nên gọi là Khứ Trảo.

– “Phép châm Triệt Y”: Là phép trên các kỳ huyệt trên các vùng Dương phận.

Do vì Âm khí bất túc, nó sẽ gây thành nội nhiệt, còn Dương khí hữu dư, nó sẽ gây thành ngoại nhiệt. Do nội nhiệt tà gặp và đánh nhau bên trong cơ thể sẽ làm cho người bệnh cảm thấy như mang trong lòng 1 cục than lửa, ngoại nhiệt sẽ đốt nóng bên ngoài bừng bừng làm cho người bệnh cảm thấy sợ quần áo. Không những người bệnh không cho người khác đến gần mình, họ còn rất sợ phải tiếp cận với mền chiếu. Đồng thời vì tấu lý bị bế tắc làm cho mồ hôi không xuất ra được, lưỡi khô môi nứt, bắp thịt bị nóng ráo, cổ họng bị táo, ăn uống không còn biết ngon dở nữa.

=> Thủ các huyệt Thiên phủ (Phế kinh), huyệt Đại trữ (Bàng quang kinh), châm 3 lần, châm thêm huyệt Trung Lữ du (Bàng quang kinh), nhằm đẩy lui nhiệt tà, ngoài ra còn châm bổ kinh Túc Thái âm Tỳ và kinh Thủ Thái âm Phế, nhằm làm giảm nhiệt bằng cách mồ hôi ra, khi nào nhiệt lui, mồ hôi giảm ít lại, bệnh sẽ khỏi nhanh như ta triệt y: cởi áo ra vậy.

– “Phép châm Giải Hoặc”: Là phép châm mà người châm phải biết rõ tường tận việc điều hòa Âm Dương, biết tả cái hữu dư, biết bổ cái bất túc, thay đổi việc hư thực trở lại bình thường.

Khi thân hình chúng ta bị trúng phong tà, nó sẽ làm cho huyết mạch bị hữu dư, nó sẽ làm cho tứ chi bị khinh hoặc trọng, không co duỗi được, làm cho thân mình khó xoay trở, khó cúi xuống hoặc ngửa lên, toàn thân hoặc bán thân bất toại, không còn nhận ra phương hướng đông hay tây, nam hay bắc. Ngoài ra, chứng hậu này xuất hiện khi ở trên, khi ở dưới, khi bên này, khi bên kia, điên đảo vô thường, còn nghiêm trọng hơn tình huống bị mê hoặc.

=> Châm tả cái hữu dư của tà khí, châm bổ cái bất túc của chính khí, nhằm làm bình phục lại Âm Dương, người dụng châm được như thế kết quả thật nhanh hơn giải được cơn mê hoặc vậy.

**** Phép châm có “Ngũ tà”:

– Bệnh mà trên Hàn dưới Nhiệt, trước hết nên châm ở huyệt nằm trong khoảng cổ gáy (Đại trữ, Thiên trụ) nên lưu kim lâu hơn, sau khi đã châm vào rồi, đồng thời nên cứu thêm ở vùng cổ gáy và vai, chờ chừng nào nhiệt khí trên dưới hợp nhau mới ngưng. Đây gọi là phương pháp châm đưa cái ở dưới lên trên vậy.

– Bệnh mà trên Nhiệt dưới Hàn, trước hết nên quan sát để thấy và biết được những hư mạch đang hãm xuống nơi nào đó của kinh lạc thuộc bên dưới, thủ huyệt để châm bổ, chừng nào Dương khí đi xuống mới ngưng châm. Đây gọi là phương pháp châm đưa nhiệt từ trên xuống dưới vậy (Túc tam lý,…)

– Bệnh mà khắp thân mình sốt cao, nhiệt làm cho cuồng, thấy bậy bạ, nghe bậy bạ, nói bậy bạ, trước hết nên quan sát để thấy và biết những nơi bệnh thuộc lạc mạch hay kinh mạch của Túc Dương minh Vị, nếu hư, ta thủ huyệt để châm bổ, nếu như có huyết lạc thực thì ta thủ huyệt để châm tả loại trừ huyết ứ trệ. Nhân lúc bệnh nhân đang nằm ngửa, người thầy thuốc nên đứng trước đầu của bệnh nhân, dùng 4 ngón tay (2 ngón cái và 2 ngón trỏ) đè lên vùng huyệt Nhân nghênhĐại nghênh nơi cổ trước của bệnh nhân, giữ yên như vậy cho lâu, chúng ta nên vừa day vừa ấn, kéo dài xuống đến giữa vùng huyệt Khuyết Bồn. Xong ta lại tiếp tục làm trở lại như cũ, làm cho đến khi nào nhiệt lui thì ngưng. Đây được gọi là phương pháp “thôi nhi tán chi” (đẩy lui và làm thoát ra vậy).

– Phàm châm các chứng đại tà (thực tà), ta nên châm nhằm làm cho tà khí ngày càng giảm thiểu đi, cũng là phép châm tả nhằm làm cho tà khí hữu dư tiết thoát dần, tà thực chuyển sang hư.

– Trong quá trình thao tác, ta phải đánh mạnh vào con đường lưu thông của tà khí, châm đúng vào nơi vận hành của tà khí, đồng thời từ màu sắc của cơ nhục, ta phải quan sát cho kỹ sự biểu hiện của tà khí và chính khí, qua mạch và sắc ta đừng để mất đi cái chân mạch. Ta nên châm ở các vùng phận nhục của các kinh Dương.

**** Phép châm có “Ngũ cấm”:

Ngũ đoạt: Người bệnh lâu mà hình thể, cơ nhục bị héo gầy, đó gọi là nhất đoạt; Sau khi xuất huyết nhiều, đó gọi là nhị đoạt; Sau khi ra mồ hôi nhiều, đó gọi là tam đoạt; Sau khi tiêu chảy nhiều, đó gọi là tứ đoạt; Sau khi sinh sản nhiều hoặc bị ra huyết nhiều, đó gọi là ngũ đoạt. Những trường hợp này không nên châm tả.

Ngũ nghịch: Bệnh phát sốt mà mạch lại an tĩnh, sau khi hạn xuất mà mạch lại thịnh đại và táo, đó là nhất nghịch; Bệnh tiêu chảy mà mạch lại hồng đại, đó là nhị nghịch; Bệnh tê không còn cảm giác ở tay chân lâu ngày không khỏi, bắp thịt ở bắp tay và bắp chân bị vỡ, thân hình phát nhiệt, mạch đều tuyệt, đó là tam nghịch; Tà khí xâm chiếm vào trong, hình thể héo gầy khác thường, thân hình bị nhiệt, sắc diện trắng bệch, trong lúc đại tiện, tiêu ra máu đóng cục đen, loại máu cục đen này báo hiệu bệnh đã nặng, đó là tứ nghịch; Bệnh hàn nhiệt lâu ngày làm cho hình thể héo gầy khác thường, mạch nhịp kiên mà hữu lực, đó là ngũ nghịch.

KINH NGHIỆM QUÝ BÁU TRONG CHÂM CỨU CỦA QUỐC Y ĐẠI SƯ HẠ PHỔ NHÂN

Quốc y đại sư – Thái Đẩu châm cứu – Hạ Phổ Nhân, trong mấy chục năm thực tiễn lâm sàng, đã học hỏi từ rất nhiều tiền nhân, đồng thời nỗ lực khai phá và sáng lập hệ thống châm cứu trị liệu của riêng mình – Hạ Thị Châm Cứu Tam Thông Pháp, đồng thời hình thành tư tưởng học thuật “Bệnh đa khí trệ, pháp dụng tam thông”.
Đa phần các y gia có hiệu quả trị liệu lâm sàng cao khi họ linh hoạt vận dụng và phối hợp huyệt một cách hợp lý, không bị hạn chế bởi việc sử dụng một nhóm huyệt cố định để điều trị một loại bệnh nhất định. Mặc dù tiền nhân đã để lại rất nhiều kinh nghiệm quý báu và phong phú về chức năng và ứng dụng lâm sàng của huyệt, nhưng nếu chúng ta không nghiên cứu chức năng của huyệt, không nắm bắt được đặc tính của huyệt chỉ là đang bắt chước một cách máy móc, cứ gặp bệnh này thì dùng nhóm huyệt này khiến cho không có nhận thức bệnh tật, sẽ làm cho chúng ta bị hạn chế về mặt lâm sàng. Đặc biệt khi đối mặt với các tình trạng bệnh phức tạp, nếu không hiểu rõ, chúng ta sẽ không biết cách chọn huyệt phù hợp để điều trị, không rõ nguyên nhân của bệnh nhẹ và không biết cách xử lý với bệnh nặng.
Trong trị liệu lâm chứng, phương pháp lấy huyệt của Hạ lão vô cùng linh hoạt, bình thường chọn theo đường tuần hành của kinh mạch làm cơ sở, nhưng cũng không phải đơn giản là đau đầu chữa đầu, đau chân chữa chân, mà là nghiêm khắc dựa theo học thuyết kinh lạc để biện chứng, phân tích bệnh tật là thuộc về kinh nào hoặc những kinh nào.

1. Tuần kinh lấy huyệt
Trong rất nhiều các huyệt vị, tiến hành chọn huyệt như thế nào là tương đối mấu chốt mà lại có độ khó nhất định, Hạ lão bình thường lấy theo tuần kinh lấy huyệt làm cơ sở. Muốn làm được điều này, trước hết phải dựa theo học thuyết kinh lạc để biện chứng, phân tích bệnh là thuộc về kinh nào hoặc những kinh nào. Trong 《琼瑶神书》- “Quỳnh dao thần thư” đời nhà Thanh có nói: “những người hành nghề y không biết kinh mạch nào bị bệnh, mà lấy huyệt một cách tùy tiện ” là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến hiệu quả điều trị bệnh bằng châm cứu không tốt. Do đó, một tiêu chí quan trọng trong việc chọn huyệt khi châm cứu là phân tích bệnh thuộc về kinh mạch nào dựa trên phần cơ thể bị bệnh. Sách 《标幽赋》- “Tiêu u phú” đã nói “đã luận về tạng phủ hư thực, thì cần hướng theo đường đi của kinh mạch mà tìm”. Trong lời mở đầu của 《经络考》- “Kinh Lạc Khảo”, Trương Tam Tích – thời Minh cũng chỉ ra: “Tạng phủ âm dương, mỗi loại đều có kinh mạch của riêng mình…nhận biết phần của nó để xác định kinh mạch, theo dòng chảy của nó để tìm nguồn”. Điều này thực tế cũng nhấn mạnh rằng điều trị bệnh bằng châm cứu phải phân tích dựa trên vị trí bị bệnh, từ đó có thể tìm ra huyệt một cách chính xác, thực sự “đánh đúng đích”, đây mới là nguyên tắc cơ bản của việc lựa chọn huyệt theo kinh mạch.

2. Tùy chứng chọn huyệt
Việc chọn huyệt dựa trên một triệu chứng chính được gọi là việc chọn huyệt theo triệu chứng. Về việc chọn huyệt theo triệu chứng, có hai ý nghĩa:
Một là chọn huyệt dựa trên nguyên nhân và cơ chế của bệnh, cần cân nhắc đến mối liên hệ giữa bệnh và kinh lạc, và chọn huyệt phù hợp với nguyên nhân của bệnh dựa trên lý thuyết về kinh lạc và tạng phủ. Khi chọn huyệt, chúng ta cần chú trọng kết hợp việc chọn huyệt dựa trên chẩn đoán và chọn huyệt dựa trên kinh lạc.
Hai là chọn huyệt dựa trên các triệu chứng xuất hiện trong quá trình bệnh tật. Thực tế, trong lịch sử châm cứu, việc chọn huyệt phù hợp với triệu chứng thường thấy ở những huyệt cụ thể, trong đó Ngũ Du Huyệt là nổi bật nhất. Từ phương pháp điều trị của người Hạ Lão, chúng ta có thể thấy rằng khá nhiều huyệt thuộc loại huyệt đặc hiệu, do đó việc nghiên cứu sâu rộng về việc ứng dụng các huyệt cụ thể có ý nghĩa rất lớn trong việc cải thiện hiệu quả châm cứu.

3.Tính năng tuyển huyệt
Bổ khí: thái uyên, khí hải, bách hội, thiên trung.
Bổ huyết: huyết hải, cách du, trung quản, tuyệt cốt.
Tư âm: tam âm giao, âm khích, thái khê, chiếu hải.
Tráng dương: mệnh môn, quan nguyên, thái khê, thận du.
Thư can: khâu khư, thái xung, nội quan, kỳ môn, lễ câu.
Kiện tỳ: thái bạch, kiến lý, chương môn, tỳ du.
Giải biểu: hợp cốc, ngoại quan, đại truỳ, kinh huyệt(ngũ du).
Khư phong: phong tự huyệt vị.
Ôn lý: huỳnh huyệt, tráng dương huyệt.
Thông hành huyệt: chi câu, thủ tam lý, thiên xu, khúc trì, tam tiêu du, điều khẩu, hoàn khiêu, quy lai.
Lợi thuỷ: thái khê, tứ độc, tam âm giao, âm lăng tuyền, thuỷ phân, thuỷ câu, thuỷ đạo.
Khư đàm: lạc huyệt, tà theo lạc huyệt mà được đưa ra ngoài.
Trấn tĩnh an thần: thần tự huyệt.
Thăng cử huyệt: bách hội, xung tự huyệt, gia bổ khí huyệt.
Hoạt huyết khư ứ: khích huyệt, cục bộ phóng huyết, bổ huyết huyệt.
Tỉnh não khai khiếu: nhân trung, tỉnh huyệt, tứ thần thông, hội âm, bách hội, nội quan.
Thoái nhiệt: đại truỳ, cao hoang du, âm khích, lao cung, xích trạch, nhĩ tiêm phóng huyết, khúc trì, thanh lãnh uyên.
Trị hãn: hợp cốc, phức lưu, âm khích, xích trạch, khí hải, lao cung.
Phù chính khư tà: nguyên lạc phối huyệt.

4. Bộ vị chọn huyệt
Bán thân: thính cung.
Nửa người trên: hợp cốc.
Nửa người dưới: thái xung, hoàn khiêu.
Đỉnh đầu: thái xung, dũng tuyền, hợp cốc.
Hai bên đầu: túc lâm khấp, ngoại quan, trung chử.
Vùng gáy: chí âm, hậu khê, trưởng cường.
Trước trán: giải khê, phong long, hợp cốc.
Vùng mặt: hợp cốc, xung dương, khí xung, điều khẩu.
Xương cung mày: can du.
Mắt: can du, tý nhi, dưỡng lão, quang minh, mục song, phong trì, hành gian.
Mũi: thông thiên, liệt khuyết, thượng tinh, khổng tối, phế du, thiên trung.
Môi miệng: tỳ du, thái bạch, phong long.
Răng lợi: thái hoát, khúc trì, hợp cốc, thiên lịch.
Vùng lưỡi: thông lý, chiếu hải, phong phủ, á môn, hoạt nhục môn.
Tai: thái khê, ngoại quan, huyền chung.
Cổ gáy: liệt khuyết, chi chính, côn lôn.
Yết hầu: thông lý, chiếu hải.
Vai: điều khẩu.
Khuỷu tay: xung dương.
Tay: đại truỳ, trung quản.
Cột sống: hậu khê, nhân trung, đại chung.
Lưng: hợp cốc, dưỡng lão.
Vùng ngực: nội quan, túc lâm khấp, lương khâu, thái uyên, khổng tối, đại lăng.
Vùng vú: túc lâm khấp, lương khâu, nội quan, kiên tỉnh, thiểu trạch.
Vùng dạ dày: nội đình.
Vùng sườn: khâu khư thấu chiếu hải.
Vùng dưới sườn: nội quan.
Vị quản: túc tam lý, lương khâu, phong long.
Vùng bụng: chi câu, thủ tam lý, tam âm giao, túc lâm khấp.
Vùng bụng dưới: lễ câu.
Vùng lưng: uỷ trung, thái khê, hợp dương.
Tiền âm: đại đôn, thuỷ tuyền.
Hậu âm: thừa sơn, nhị bạch.
Đùi: yêu dương quan, trật biên, hoàn khiêu.
Cẳng chân: phong phủ, yêu giáp tích.
Vùng gót chân: quan nguyên, khí hải, mệnh môn, thận du.
Ngón chân: bách hội, trung quản, chương môn.
Nách: nội quan, lễ câu.

5. Chọn huyệt theo nguyên nhân gây bệnh
Ngoại cảm: hợp cốc, ngoại quan, đại truỳ.
Nội thương – thương thực: túc tam lý, thiên xu.
Ngoại thương: cục bộ phóng huyết, tuần kinh khích huyệt.
Nói chung, phương pháp chọn huyệt rất đa dạng, cần có kiến thức cơ bản toàn diện để có thể sử dụng linh hoạt. Chúng ta cũng có thể xem xét việc chọn huyệt dựa trên thời gian (Tý Ngọ lưu trú), thể chất, biện chứng, kinh nghiệm và nhận thức của y học hiện đại. Dựa trên những vấn đề nêu trên, chúng ta có thể kết hợp các huyệt theo quy tắc quân – thần – tá – sứ để tạo thành phương huyệt, từ đó phục vụ tốt hơn cho lâm sàng.

Cùng chuyên mục

Kỳ Kinh Bát Mạch

Kinh tuyến của Đốc mạch (Du Mai) Đặc trưng Kinh lạc: Đốc mạch và Nhâm mạch là những đường kinh duy nhất có huyệt đạo riêng....

Góp nhặt Phương huyệt trị bệnh

CÁCH CHỮA TRỊ TRĨ 1. Bấm Huyệt Bách Hội. 2. Huyệt Đại Lăng. 3. Huyệt Uỷ Trung. 4. Huyệt Côn Luân theo hình. Nếu các huyệt nào báo đau...

Công thức huyệt Đổng Thị

TRỊ SUY NHƯỢC THẦN KINH (神經衰弱) (Phùng Văn Chiến lược dịch từ http://www.tungs-acupuncture.com/前會穴/) Châm huyệt Tam hội (Chính hội, Tiền hội, Hậu hội), Thuỷ kim, Thuỷ...